Tại Việt Nam trước ngày Tết còn có phong tục như "cúng
Táo Quân" (23 tháng Chạp Âm lịch) và "cúng
Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng Chạp Âm lịch). Vì Tết tính theo
Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn
Tết Dương lịch (hay Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 20 tháng 2 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 (hay mùng 1 ) tháng Giêng âm lịch trên toàn nước Việt Nam và ở một vài nước khác có
cộng đồng người Việt sinh sống. Sắm cây đào và cây quất ở miền Bắc, hay cây mai ở miền Trung và miền Nam được coi là sự chuẩn bị không thể thiếu trong những ngày giáp Tết. Sau đó, trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, dành những lời chúc mừng tốt đẹp, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên.
"Tết Nguyên Đán" vốn không phải là "Tiết Nguyên Đán" trong 24 điểm "
Tiết khí" :của Thời tiết phân chia theo lịch Mặt trăng (
Nông lịch). Từ “nguyên” trong “Nguyên Đán” có nghĩa là sự khởi đầu hay là sơ khai và "đán" có nghĩa là buổi sáng sớm hay là bình minh. Nghĩa gốc của từ “Nguyên Đán” là chỉ "Buổi sáng đầu tiên/Ngày đầu tiên (tức ngày mồng một) của một năm Nông lịch".
Hiện nay, tại
Trung Quốc,
Tết âm lịch không còn được gọi là Tết Nguyên Đán nữa. Tại
Trung Quốc đại lục, thời
Dân quốc, năm thành lập Trung Hoa Dân quốc (năm 1912) được lấy làm mốc khởi thuỷ để định tên năm dương lịch. Năm thành lập Trung Hoa Dân quốc được coi là Trung Hoa Dân quốc năm thứ nhất. Năm sau Dân quốc năm thứ nhất, tức là
Công nguyên năm 1913, là Dân quốc năm thứ hai, năm 1914 là Dân quốc năm thứ ba, năm 1915 là Dân quốc năm thứ tư... Lấy số năm Công nguyên trừ cho 1911 thì sẽ ra số năm Dân quốc tương ứng của năm Công nguyên đó. Ngày 27 tháng 9 năm 1949, tại Hội nghị Toàn thể Khoá I
Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc quyết định gọi tên các năm dương lịch theo thứ tự trong
kỷ nguyên Công lịch,
chính thức quy định ngày 1 tháng 1 dương lịch (tức Tết Tây) gọi là “Nguyên đán”, ngày mồng một tháng giêng nông lịch gọi là “Xuân tiết”(nghĩa là lễ hội mùa xuân).
Hai miền Nam Bắc Việt Nam từ sau năm 1975 đều cùng sử dụng múi giờ GMT+7 (trước đó
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+7, còn
Việt Nam Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+8 giống như Trung Quốc), Trung Quốc thì sử dụng múi giờ GMT+8. Do Việt Nam và Trung Quốc sử dụng hai múi giờ khác nhau, âm lịch Việt Nam và âm lịch Trung Quốc cũng có đôi chút khác biệt, có lúc thì chỉ lệch có một giờ, có lúc thì lệch đến một tháng. Vì vậy mà có năm Việt Nam đón Tết cùng ngày với Trung Quốc, có năm lại đón Tết trước hoặc sau Trung Quốc. Năm 1985, Việt Nam đón Tết trước Trung Quốc 1 tháng.